Lịch sử Đại_Công_quốc_Áo

Sau khi Áo tách khỏi Bayern và trở thành lãnh địa Hoàng gia vào năm 1156, các công tước nhà Babenberg cũng sáp nhập Công quốc Steiermark lân cận vào năm 1192. Sau khi dòng họ này tuyệt tự vào năm 1246 và sự chiếm đóng của Vua Otakar II của Bohemia, nó đã bị chiếm giữ bởi vua Rudolf I của Đức nhà Habsburg, người đã đánh bại Otakar trong Trận chiến ở Marchfeld năm 1278 và phong tước cho con trai của ông ta là Albrecht I.[7]

Vào năm 1358/59, công tước nhà Habsburg Rudolf IV, để đáp lại Sắc chỉ Vàng năm 1356, đã tuyên bố tước vị Đại công tước bằng cách giả mạo Privilegium Maius. Rudolf nhắm đến việc đạt được một địa vị tương đương với bảy tuyển hầu tước của Đế quốc, những người nắm giữ các 'chánh văn phòng' của Hoàng gia (xem Đại Thủ tướng); tuy nhiên, những nỗ lực của ông đã thất bại vì việc nâng tước hiệu bị hoàng đế Karl IV nhà Luxemburg từ chối. Đến Hiệp ước Neuberg năm 1379, những người thừa kế của ông đã chia nhau các lãnh thổ của nhà Habsburg. Công quốc Áo vẫn nằm dưới sự cai trị của nhánh Habsburg Albrecht.[8][5]

Từ Công quốc trở thành Đại Công quốc

Vào ngày Lễ hiển linh 1453, Hoàng đế Friedrich III, nhiếp chính Áo cho người em họ thuộc nhánh Habsburg Albrecht của mình là Ladislav Di cảo, cuối cùng cũng đã thừa nhận tước vị Đại Công tước. Sau đó nó được phong cho tất cả các hoàng đế và người cai trị của nhà Habsburg, cũng như các vương công không can dự triều chính của vương triều. Tuy nhiên, nó vẫn không có quyền bỏ phiếu trong việc bầu Hoàng đế.

Friedrich tiếp tục thúc đẩy sự trỗi dậy của nhà Habsburg ở châu Âu với sự dàn xếp cuộc hôn nhân giữa con trai ông là Maximilian IMary Giàu có, người thừa kế Bourgogne vào năm 1477. Sau khi con trai của Maximilian là Philipp Đẹp trai vào năm 1496 đã kết hôn với Juana Điên, Nữ hoàng CastillaAragon để con trai của ông ta là Karl V có thể được thừa kế "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn".[5]Tuy nhiên, em trai của Karl là Ferdinand I đã tuyên bố quyền của mình và trở thành Đại Công tước Áo theo phân bổ thừa kế tại Nghị viện Worms năm 1521, theo đó ông ta trở thành nhiếp chính đối với công quốc Áo và các vùng đất liền kề Nội ÁoSteiermark, Kärnten, Kärnten|Gorizia (Görz). Nhờ việc kết hôn với Công chúa Anna của Bohemia và Hungary, Ferdinand thừa kế cả hai vương quốc vào năm 1526. Ngoài ra, ông còn là Vua của người La Mã từ năm 1531, ông trở thành tổ tiên của nhánh Áo nhà Habsburg (Habsburg-Lothringen từ năm 1745 trở đi), được coi là Đại công tước của Áo và vua của Bohemia cai trị với tư cách là Hoàng đế La Mã Thần thánh cho đến khi Đế quốc tan rã vào năm 1806.[6]

Đế quốc Áo

Năm 1804, Hoàng đế Franz II nhà Habsburg, người cũng là người cai trị các vùng đất của Quân chủ Habsburg đã thăng cấp các lãnh thổ của mình trong Đế quốc La Mã Thần thánh cùng với Vương quốc Hungary của ông thành Đế quốc Áo để phản ứng với việc Napoléon I tuyên bố thành lập Đế quốc Pháp; hai năm sau, Franz chính thức giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh. Đại Công quốc Áo tiếp tục tồn tại như một lãnh địa hoàng gia (Kronland) mặc dù nó được chia thành Thượng và Hạ Áo để đáp ứng các mục đích hành chính. Hungary vẫn giữ nguyên trạng trước đó là Regnum Independens. Danh hiệu Đại Công tước tiếp tục được sử dụng bởi các thành viên hoàng gia và tước Đại Công tước chỉ chính thức bị bãi bỏ vào năm 1918 với sự sụp đổ của Đế quốc Áo-Hung và sự ra đời của các bang riêng biệt là HạThượng Áo trong Cộng hòa Áo - Đức mới.[5]